Bởi theo ông, rủi ro trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn là rất lớn bao gồm những rủi ro liên quan đến thời tiết không được dự đoán và không thể dự đoán và tác động của nó đến vật nuôi cây trồng. Như vậy, để đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nông nghệp nông thôn theo hướng sản xuất nông sản hàng hóa, cần có các chính sách thiết thực và hiệu quả để hỗ trợ đồng bộ.
Ông cũng cho biết, nếu tiếp tục chính sách bảo hiểm nông nghiệp theo kiểu hỗ trợ toàn bộ và phần lớn phí bảo hiểm nông nghiệp nhất là đối với cây lúa như thời gian qua kết quả thu được khá hạn chế và không khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa. Vì vậy cần xác đinh lại mục tiêu hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp bước đầu cho sản xuất nông sản hàng hóa.
Luật sư Thái Văn Cách đề xuất cụ thể, đối với cây lúa để mạnh dạn thay đổi chính sách: Không tiếp tục hỗ trợ toàn bộ phí bảo hiểm cho những hộ không đủ khả năng sản xuất lúa hàng hóa do diện tích đất được giao ít, dù hộ đó là hộ nghèo, cận nghèo hay hộ thường.
Những hộ nghèo, cận nghèo muốn mua bảo hiểm sẽ chỉ được hỗ trợ phí như những hộ thường có sản xuất nông sản hàng hóa khác và Nhà nước không hỗ trợ nông dân khi tổn thất xảy ra mà rủi ro đã nằm trong các quy định bảo hiểm nông nghiệp.
Các doanh nghiệp bảo hiểm tính toán lại mức phí bảo hiểm giành cho các Hộ sản xuất lủa hàng hóa, các nông trang trại chăn nuôi tập trung, đưa tỷ lệ phí phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của người mua bảo hiểm, không làm cho chi phí sản xuất tăng cao làm giảm lợi nhuận của người sản xuất vào những năm không có thiên tai và dịch bệnh .
Bên cạnh đó, Nhà nước coi việc hỗ trợ một phần phí bảo hiểm cho các hộ sản xuất lúa hàng hóa trên trên cơ sở định lượng số ha sản xuất lúa, năng suất lúa/ha, là một phần trong chính sách bảo hộ sản xuất lúa phục vụ xuất khẩu, hộ sản xuất lúa được tính phí bảo hiểm vào giá thành khi nhà nước thu mua lúa để xuất khẩu hay dự trữ quốc gia .Với tỷ lệ phí thấp lại được hỗ trợ một phần, sẽ thu hút các hộ sản xuất lúa hàng hóa mua bảo hiểm
Ngoài ra, thay đổi thủ tục mua bảo hiểm, chủ hợp đồng bảo hiểm phải là chủ hộ gia đình, công ty bảo hiểm khi bồi thường tổn thất phải trả tiền trực tioếp cho chủ hộ gia đình mua bảo hiểm , không thông qua trung gian. Nhà nước chỉ định cơ quan có thẩm quyền về thống kê sản lượng ,giá lúa tại mỗi địa phương, có thể là cấp Huyện, công bố thông tin sau mỗi mùa vụ làm cơ sở để từng hộ có thể mua bảo hiểm.
Về lâu dài, theo luật sư, bên cạnh các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm đã được cấp phép hiên tại, Nhà nước tổ chức vận động, cử chuyên gia, hỗ trợ kinh phí ban đầu, hỗ trợ vốn hay với tư cách là thành viên sáng lập để thành lập các Công ty bảo hiểm tương hỗ như kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới để tiến hành bảo hiểm nông nghiệp nhất là cây lúa.
Ông Ngô Việt Trung – Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm cho biết, theo số liệu của Tổng cục thống kê, ngành nông nghiệp, bao gồm lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng trên 16% trong tổng GDP cả nước; tổng diện tích đất nông nghiệp là 27.302 nghìn ha, chiếm 82,4% tổng diện tích đất của cả nước.…Tuy nhiên, với đặc thù sản xuất và đặc điểm khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng, sản xuất nông nghiệp Việt Nam bị tác động mạnh và chịu nhiều thiệt hại lớn do thiên tai, dịch bệnh gây ra.
Ông Ngô Việt Trung – Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm
Chính vì vậy, BHNN có 4 tác dụng lớn: Thứ nhất, hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp chủ động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do thiên tai, dịch bệnh gây ra, góp phần ổn định đời sống, tạo điều kiện nhanh chóng khôi phục sản xuất.
Thứ hai, BHNN còn giúp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sản xuất hàng hóa lớn, tăng cường năng lực của tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp tăng cường nhận thức và năng lực quản trị rủi ro kể từ trước.
Thứ ba, BHNN là giải pháp bổ sung, bên cạnh các giải pháp tài chính hiện nay của Chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, góp phần giảm nhẹ gánh nặng về ngân sách nhà nước...
Thứ tư, góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nước
Về định hướng chính sách BHNN trong thời gian tới, theo ông Trung trước hết cần tới sự ban hành Nghị định về BHNN để tạo cơ sở pháp lý tiếp tục triển khai, phát huy được các kết quả tích cực và khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian thí điểm,…Tiếp đó cần đề xuất chính sách theo dự thảo Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp.
Ông Trung thông tin, tháng 10/2017, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp với 02 chính sách về thực hiện bảo hiểm nông nghiệp và chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp.
Trong đó có nêu rõ, thứ nhất, BHNN được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận, không giới hạn tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm và phạm vi địa bàn. Thứ hai, Chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp được thực hiện phù hợp với khả năng cân đối ngân sách trong từng thời kỳ. Đồng thời, dự thảo Nghị định xây dựng các quy định cụ thể về kiểm soát rủi ro, đề phòng, hạn chế tổn thất và phòng chống gian lận bảo hiểm nhằm đảm bảo hai chính sách nêu trên được triển khai thực hiện lành mạnh, bền vững và hiệu quả.
Ở cách tiếp cận khác, Quyết định số 315/QĐ-TTg điểm danh đối tượng bảo hiểm cụ thể cây trồng, vật nuôi, thủy sản. Nhưng chúng tôi tiếp cận hướng khác, đưa ra khung với mỗi loại cây trồng, vật nuôi sẽ đưa ra các mặt hàng chiến lược nhà nước tập trung đầu tư, còn hỗ trợ như thế nào thì sẽ căn cứ vào giai đoạn trung hạn, mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, khả năng ngân sách giai đoạn đó thì Bộ Tài chính và BỘ Nông nghiệp sẽ tư vấn cho Chính phủ đối tượng và mức phí hỗ trợ phù hợp.
Năm nay Ban tổ chức trình Chính phủ Dự thảo nghị định này và hiện Văn phòng Chính phủ đang xin ý kiến 27 thành viên Chính phủ và đang tổng hợp ý kiến để trình Chính phủ ban hành.
Về vấn đề thiếu sự liên kết giữa các DN làm bảo hiểm, trong dự thảo Bộ Tài chính có khắc phục điều này. Trong đó nêu rõ, với sản phẩm tự nguyện, DN có thể tự do, kiểm soát rủi ro. Với chính sách hỗ trợ, chúng tôi đề xuất triển khai đồng bảo hiểm để đảm bảo cùng mặt bằng có sự hỗ trợ, không tạo ra cơ chế cạnh tranh không lành mạnh. Và để phục vụ tốt hơn bà con ở địa phương cần có nhóm hỗ trợ bảo hiểm tại địa phương.
Ông Trung cho rằng ý kiến về thiếu cơ chế liên kết với ngân hàng mà các đại biểu đưa ra tại Diễn đàn là hoàn toàn đúng. Một số nước trong khu vực như Campuchia không hẳn tách BHNN riêng mà BHNN nằm trong một gói chính sách liên kết cả ngân hàng bảo hiểm và chính sách khác. Khi ngân hàng có những gói chính sách ưu đãi cho nông dân có bảo hiểm sẽ yên tâm cho vay hơn. Bà con khi không may xảy ra tổn thất thì đã có bảo hiểm lo.
"Về cơ chế cho DN, chúng tôi hoàn toàn nhất trí, hỗ trợ DN có thể bằng nhiều cách bằng cơ chế, cơ chế tài chính, chính sách ưu đãi nhưng tùy từng thời điểm. Chúng tôi tiếp thu để trình các cấp lãnh đạo.
Hi vọng sau khi Nghị định được ban hành, Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp sẽ triển khai chương trình từng bước và có trọng điểm" - ông Trung nói.
Ông Đàm Quang Thắng – Chủ tịch Hiệp hội hóa chất nông nghiệp Hà Nội cho biết, ông rất nhiều lần đề cập đến tính cấp thiết của bảo hiểm nông nghiệp bởi khi có vấn đề gì xảy ra thì doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn.
Ông Đàm Quang Thắng – Chủ tịch Hiệp hội hóa chất nông nghiệp Hà Nội
Tuy nhiên, ở khía cạnh Hiệp hội, đại diện cho DN ông Thắng kiến nghị: Đối tượng sản xuất đề nghị tập trung trực tiếp vào cây trồng vật nuôi có giá trị; tập trung vào việc sản xuất hướng tới xuất khẩu theo tiêu chuẩn các nước trên thế giới; tập trung vào việc sản xuất theo các vùng tập trung: vải thiều Lục Ngạn...
Thay vì chính sách hỗ trợ cho người nghèo vì bản thân các doanh nghiệp đã hỗ trợ quá nhiều, ông Thắng đề nghị hỗ trợ liên kết sản xuất, mà liên kết thì rất cần có bảo hiểm. Đây là việc hết sức quan trọng. Cùng với đó là hỗ trợ vào vùng có sản xuất cây trồng vật nuôi có xuất khẩu: Không cần hỗ trợ 100%, chỉ cần hỗ trợ 1 phần nào đó.
Qua đây, ông Thắng cũng kiến nghị: Thứ nhất, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo tạo hành lang pháp lý, vốn hỗ trợ các đơn vị làm bảo hiểm, DN. Thứ hai, Phải hoạt động theo nguyên lý thị trường bởi nhu cầu hiện nay rất nhiều, bản thân nông dân cũng có nhu cầu, có cung thì sẽ có cầu. Thứ ba, tối giản các thủ tục. Khi tham gia vào tôi thấy có quá nhiều thủ tục, rườm rà, mất thời gian. Mỗi địa phương có một tập quán sản xuất riêng, nếu áp dụng theo khuôn khổ chung thì rất khó.
Bà Lê Thị Thanh A – Giám đốc phát triển kinh doanh khu vực công TCty Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam cho rằng các vấn đề đưa ra tại Diễn đàn là đầy đủ và nhiều thông tin, tuy nhiên vẫn mang tính dàn trải.
Bà Lê Thị Thanh A – Giám đốc phát triển kinh doanh khu vực công TCty Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam
Bà Thanh A cho rằng có hai vấn đề cần tập trung: Thứ nhất, nên có hướng sản phẩm rõ ràng cho doanh nghiệp, đối tượng sản phẩm cụ thể cho người nông dân. Thứ hai, các bên có lien quan cần ngồi lại với nhau để liên kết lại đưa ra hướng phát triển sản phẩm cho người nông dâ và doanh nghiệp bảo hiểm. Việc nào dễ thì ưu tiên làm trước, khó thì làm sau.
Trả lời vấn đề của ông Đàm Quang Thắng,
ông Ngô Việt Trung – Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm cho biết, đề xuất của ông Thắng về sản xuất tập trung, Dự thảo nghị định của chúng tôi có nêu rõ, Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm có bàn với Bộ NN&PTNT để đưa ra danh mục cây trồng vật nuôi cụ thể. Đối tượng hỗ trợ, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác, quy mô lớn, áp dụng quy trình sx tập trung, tiên tiến, …
Về ý kiến không nên hỗ trợ hộ nghèo: Chính sách của Đảng và nhà nước có những chính sách đan xen anh sinh xã hội và hỗ trợ sản xuất nên chúng tôi cố gắng tách 2 yếu tố đó và tập trung hỗ trợ sản xuất.
Về quy định quyền lợi nghĩa vụ bên mua BH: Luật kinh doanh bảo hiểm và văn bản hướng dẫn đã có những hướng dẫn chi tiết, trong dự thảo chúng tôi không nhắc lại tất cả mà nhấn mạnh nội dung phải nêu rõ trong hợp đồng. Đồng thời phải có chính sách kiểm soát rủi ro.
Về căn cứ xác định bồi thường nghị định cũng linh hoạt hơn. Với dịcch bệnh liên quan cần có công bố rõ thông tin, doanh nghiệp bảo hiểm và bà con cần cùng xác định, thống nhất với nhau để xác định rủi ro để tiến hành bồi thường. Lần đầu tiên nghị định đưa bảo hiểm chỉ số cũng là căn cứ để xác định.
Về thủ tục, ông Thắng có nêu cần đơn giản hơn, Nghị định có nêu 1 số thủ tục nhưng chủ yếu là 2 thủ tục xác định đối tượng được hỗ trợ của nhà nước và thủ tục xem xét giải quyết bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm.
Liên quan đến vấn đề bà Thanh An nêu ra, ông Trung cho biết, về vấn đề định hướng sản phẩm cho doanh nghiệp bảo hiểm, ở đây có hai chính sách rõ ràng, chúng ta không can thiệp vào chính sách bảo hiểm của doanh nghiệp. Nhưng với sản phẩm thuộc chương trình của Nhà nước thì các bộ phải ngồi lại với nhau để đưa ra gói sản phẩm cụ thể với đối tượng nào, định mức ra sao. Còn việc liên kết được các bên ngân hàng, bảo hiểm, người nông dân thì quá tốt.
Ban tổ chức chụp hình lưu niệm cùng các vị diễn giả.
Nhóm PV